BABOK – Chương 11 – 11.3 – Quan điểm Công nghệ thông tin – Part 1/5

Quan điểm Công nghệ thông tin nêu bật các đặc điểm của phân tích nghiệp vụ khi được thực hiện từ quan điểm về tác động của sự thay đổi đối với hệ thống công nghệ thông tin.

Quan điểm này tập trung vào các cách tiếp cận không linh hoạt đối với các sáng kiến CNTT

Khi làm việc trong lĩnh vực công nghệ thông tin (CNTT), BA phải đối mặt với nhiều mức độ phức tạp và phạm vi hoạt động. Các sáng kiến có thể nhỏ như sửa lỗi nhỏ và cải tiến hoặc lớn như tái thiết kế toàn bộ cơ sở hạ tầng CNTT cho một doanh nghiệp mở rộng. BA được yêu cầu làm việc với trình độ kiến thức và kỹ năng đa dạng này giữa các bên liên quan để cung cấp các giải pháp có giá trị cho nhu cầu CNTT của họ.

Để biết thông tin về các phương pháp tiếp cận linh hoạt trong các sáng kiến cCNTT, hãy xem Quan điểm Agile.

Khả năng trình bày rõ ràng một cách hiệu quả tầm nhìn và nhu cầu của doanh nghiệp với các bên liên quan về kỹ thuật là trọng tâm tạo nên thành công của BA trong lĩnh vực CNTT. BA chủ động cộng tác với cả các bên liên quan trong nhóm nghiệp vụ và nhóm phát triển để đảm bảo rằng các nhu cầu được hiểu rõ và phù hợp với chiến lược của tổ chức. BA thường đóng vai trò là người phiên dịch, người giúp các bên liên quan hiểu về nghiệp vụ, công nghệ và hiểu được nhu cầu, những hạn chế và bối cảnh của nhau.

Khái niệm thiết kế giải pháp phù hợp trong bối cảnh công nghệ và theo quan điểm của IT-BA (BA trong lĩnh vực CNTT). Tuy nhiên, thuật ngữ “thiết kế” (khi được thảo luận trong môi trường CNTT) thường được hiểu là “thiết kế kỹ thuật” hoặc việc sử dụng công nghệ để giải quyết các vấn đề nghiệp vụ. BA trong bối cảnh CNTT xác định và xây dựng các yêu cầu giải pháp hoặc tham gia thiết kế giải pháp với các bên liên quan về nghiệp vụ trong khi vẫn duy trì sự tách biệt với thiết kế kỹ thuật.

Quan trọng

Trong bối cảnh CNTT, thuật ngữ “thiết kế” theo truyền thống được dành riêng cho giải pháp hoặc thiết kế kỹ thuật được thực hiện bởi các nhà phát triển, kiến trúc sư CNTT hoặc kiến trúc sư giải pháp. Tất cả công việc được thực hiện bởi IT-BA đều được bao hàm trong thuật ngữ “yêu cầu”, bao gồm các khái niệm như định nghĩa và thiết kế quy trình nghiệp vụ, giao diện người dùng, báo cáo hoặc các yếu tố khác của giải pháp liên quan đến các bên liên quan bên ngoài. BA làm việc trong bối cảnh này có thể thích thuật ngữ “yêu cầu giải pháp” thay vì “thiết kế” để duy trì sự phân tách trách nhiệm rõ ràng.

BA làm việc trong môi trường CNTT xem xét nhiệm vụ của họ dựa trên ba yếu tố chính:

  • Tác động của giải pháp: giá trị và rủi ro của giải pháp đối với doanh nghiệp.
  • Sự trưởng thành của tổ chức: tính hình thức và tính linh hoạt của các quá trình thay đổi tổ chức.
  • Thay đổi phạm vi: chiều rộng, chiều sâu, độ phức tạp và bối cảnh của Đề xuất thay đổi.

PHẠM VI THAY ĐỔI

Những thay đổi đối với hệ thống CNTT được bắt đầu vì nhiều lý do.

Mỗi yếu tố kích hoạt sau đây có thể dẫn đến thay đổi CNTT:

  • Tạo ra năng lực tổ chức mới: có thể được thực hiện để chuyển đổi tổ chức. Những loại sáng kiến CNTT này có thể thúc đẩy việc tạo ra các chương trình lớn hơn để giải quyết những thay đổi không liên quan đến CNTT, nhưng tập trung vào công nghệ làm thay đổi môi trường nghiệp vụ.
  • Đạt được mục tiêu của tổ chức bằng cách nâng cao năng lực hiện có: là một phần của sự thay đổi nhằm đáp ứng nhu cầu đã xác định. Điều này có thể bao gồm những thay đổi để đáp ứng các yêu cầu quy định hoặc để thực hiện các mục tiêu cụ thể của doanh nghiệp. Những loại sáng kiến này thường sửa đổi hệ thống hiện có nhưng cũng có thể yêu cầu triển khai và tích hợp các hệ thống mới.
  • Tạo điều kiện thuận lợi cho việc cải tiến hoạt động: được thực hiện để cải thiện hiệu quả của tổ chức hoặc giảm thiểu rủi ro của tổ chức. Phạm vi thay đổi, sự trưởng thành của tổ chức và tác động của giải pháp quyết định liệu những thay đổi này sẽ được quản lý như một dự án, một phần của nỗ lực cải tiến liên tục hay dưới dạng nâng cao.
  • Duy trì hệ thống cntt hiện có: được thực hiện nhằm đảm bảo hệ thống CNTT hiện có vận hành thông suốt. Tùy thuộc vào phạm vi thay đổi, việc bảo trì có thể được quản lý như một dự án hoặc một hoạt động được lên lịch thường xuyên. Điều này có thể bao gồm những thay đổi do công nghệ thúc đẩy, chẳng hạn như nhà cung cấp ngừng hỗ trợ công nghệ, phát hành hoặc nâng cấp theo lịch trình đối với gói phần mềm đã mua hoặc các sửa đổi kỹ thuật cần thiết để hỗ trợ chiến lược kiến trúc.
  • Sửa chữa hệ thống cntt bị lỗi: được thực hiện khi một hệ thống CNTT không hoạt động như mong đợi sẽ được thay đổi để khắc phục tình trạng rối loạn chức năng. Mức độ khẩn cấp của việc sửa chữa thường dựa trên mức độ gián đoạn gây ra. Trong một số trường hợp, phạm vi nỗ lực sửa chữa là rất lớn nên việc sửa chữa được quản lý như một dự án.

Phạm vi thay đổi

Các sáng kiến CNTT có thể tập trung vào một hệ thống đơn lẻ hoặc trên nhiều hệ thống tương tác với nhau. Một số hệ thống được phát triển và bảo trì nội bộ trong khi các hệ thống khác là hệ thống thương mại sẵn có (COTS) được phát triển bởi một tổ chức bên ngoài nhóm triển khai hệ thống. Cũng có thể một tổ chức bên ngoài hoàn thành việc phát triển tùy chỉnh, chẳng hạn như khi các nhiệm vụ phát triển được thuê ngoài hoặc ký hợp đồng.

Phạm vi của sáng kiến CNTT thường tập trung vào phần mềm và phần cứng cũng như một số lượng tối thiểu các hệ thống, ứng dụng hoặc các bên liên quan. Các sáng kiến lớn hơn có thể tác động đến nhiều nhóm người dùng hoặc hệ thống và thường yêu cầu sự cộng tác với doanh nghiệp mở rộng. Triển khai công nghệ thông tin hệ thống thương mại sẵn có (COTS) có thể bắt đầu với phạm vi nhỏ hoặc giới hạn khi bắt đầu thay đổi, nhưng sau khi phân tích xong, phạm vi sẽ rộng hơn dự đoán ban đầu.

Phương pháp phân tích nghiệp vụ để lựa chọn và triển khai COTS được tiếp cận khác với phương pháp phát triển nội bộ. Các hệ thống CNTT này hầu như luôn yêu cầu tùy chỉnh, tích hợp, quản trị và đào tạo. Trong một số trường hợp, các sáng kiến chỉ giới hạn ở việc cài đặt và triển khai ban đầu hoặc cải tiến ứng dụng hiện có. Các sáng kiến CNTT cũng có thể tập trung vào một giải pháp công nghệ rất cụ thể như dữ liệu nào cần thiết, cách thu thập dữ liệu, cách lưu trữ và truy cập dữ liệu để hỗ trợ các phương thức giao dịch nghiệp vụ hoặc cách thông tin được báo cáo và có sẵn cho các nhóm nghiệp vụ.

BA làm việc trong lĩnh vực CNTT xem xét cẩn thận bối cảnh của bất kỳ thay đổi CNTT nào. Họ xem xét liệu thay đổi được quản lý như một dự án, một hoạt động cải tiến liên tục hay một hoạt động bảo trì. BA cũng xem xét việc quản lý thay đổi tổ chức và tất cả các tác động bao gồm đào tạo, truyền thông và áp dụng thay đổi.

Bản chất của hoạt động phân tích nghiệp vụ trong môi trường CNTT phụ thuộc vào nhiều yếu tố tác động của giải pháp:

  • Điều gì xảy ra với doanh nghiệp nếu hệ thống này ngừng hoạt động?
  • Điều gì xảy ra nếu hiệu năng hệ thống suy giảm?
  • Khả năng và quy trình nghiệp vụ nào phụ thuộc vào hệ thống CNTT?
  • Ai đóng góp vào những khả năng và quy trình đó?
  • Ai sử dụng những khả năng và quy trình đó?

Khi xem xét các yếu tố tác động của giải pháp này, BA không chỉ đối chiếu hình thức của hoạt động phân tích với quy trình phân tích nghiệp vụ do tổ chức xác định mà còn xem xét tầm quan trọng của hệ thống CNTT.

Tầm quan trọng của hệ thống đang được phân tích có thể chỉ ra rằng cần phải phân tích nhiều hơn để hỗ trợ và xác định các yêu cầu cho sự thay đổi

Ezami

Related Posts

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *